Set on a cliff
overhanging the Pacific, the Salk Institute
was established in the 1960s by Jonas Salk, M.D., the developer of the polio
vaccine.
Nằm
trên vách đá nhô ra Thái Bình Dương, học viện Salk được thành lập trong những
năm 1960 bởi Jonas Salk, một dược sĩ đã phát minh ra vắc-xin phòng bại liệt.
Salk selected the
world-renowned architect Louis I. Kahn as the person who could design the
facility that he envisioned. Salk’s design brief to Kahn laid down the
direction – a facility that will be adaptable to the changing needs of science;
a facility that will need minimum maintenance and will weather gracefully; a
facility with environments which meet the researcher’s functional and aesthetic
needs.
Salk đã
chọn kiến trúc sư nổi tiếng thế giới Louis I Kahn là người thiết kế công trình
mà ông mong muốn. Nhiệm vụ thiết kế mà Salk đề ra cho Louis Kahn là một công
trình sẽ đáp ứng được những nhu cầu thay đổi của khoa học; một công trình cần
bảo trì tối thiểu và sẽ vượt qua được tác động của thời tiết một cách ngoạn
mục; một công trình có môi trường đáp ứng được công năng và nhu cầu thẩm mỹ của
các nhà nghiên cứu.
Before designing,
Kahn referenced and studied monasteries in order to build his concept
of an “intellectual retreat.” With a prime location in La Jolla, California and
bordering the Pacific Ocean, Kahn took advantage of the site’s tranquil
surroundings and abundant natural light. His scheme became a symmetrical plan,
two structures mirroring each other separated by an open plaza.
Trước
khi thiết kế, Kahn đã tham khảo và nghiên cứu các tu viện để tìm ý tưởng về sự
"rút lui của lý tính." Với một vị trí đắc địa ở La Jolla, California
và nằm bên bờ giáp với Thái Bình Dương, Kahn muốn giữ lấy sự yên tĩnh và giàu
ánh sáng tự nhiên của nơi đây. Ý tưởng của ông là một mặt bằng đối xứng, hai
cấu trúc đối xứng gương với nhau, ngăn cách bởi một quảng trường mở.
Kahn's creation
consists of two mirror-image structures that flank a grand courtyard. Each
building is six stories tall. Three floors contain laboratories and the three
levels above the laboratory floors provide access to utilities. Protruding into
the courtyard are separate towers that provide space for individual
professorial studies. The towers at the east end of the buildings contain
heating, ventilating, and other support systems. At the west end are six floors
of offices overlooking the ocean. Together, there are 29 separate structures
joined together to form the Institute.
Thiết
kế của Kahn gồm hai cấu trúc đối xứng gương phản chiếu đặt bên cạnh một sân
rộng. Mỗi tòa nhà có chiều cao sáu tầng. Ba tầng dưới đặt các phòng thí nghiệm
và trong ba tầng tiếp theo phía trên dành cho các công năng khác. Phía bên
ngoài sân là các tòa tháp riêng biệt dành cho nghiên cứu cá nhân chuyên sâu.
Các tòa tháp ở cuối phía đông của tòa nhà chứa hệ thống lò sưởi, thông gió và
các hệ thống phụ trợ khác. Ở phía tây là văn phòng gồm sáu tầng nhìn ra biển.
Tổng số 29 công trình riêng lẻ liên kết với nhau tạo nên Viện nghiên cứu sinh
học này.
You can see the
impact of Kahn's architecture in the courtyard. Important to note are Kahn's
imaginative use of space and his high regard for natural light. In response to
Salk's request that the Institute provide a welcoming and inspiring environment
for scientific research, Kahn flooded the laboratories with daylight. He built
all four outer walls of the laboratory levels out of large, double-strength
glass panes, producing an open, airy work environment. The labs are totally
open spanning the total length of the building and each scientist has a study
with an unobstructed view of the Pacific Ocean.
Ta có
thể nhận ra sức ảnh hưởng từ kiến trúc của Kahn trong thiết kế không gian sân.
Điều quan trọng cần lưu ý là cách sử dụng không gian đầy ẩn dụ và sự chú trọng
của Kahn với ánh sáng tự nhiên. Để đáp ứng yêu cầu của Salk về một môi trường
thân thiện và tạo cảm hứng cho nghiên cứu khoa học, Kahn đã làm cho các phòng
thí nghiệm tràn ngập ánh sáng tự nhiên. Ông đã xây bốn bức tường lớn bên ngoài
của các tầng có phòng thí nghiệm, và lắp các mảng kính cường lực, tạo ra một
không gian mở, thông thoáng. Các phòng thí nghiệm là hoàn toàn mở, dọc theo
chiều dài của tòa nhà và mỗi nhà khoa học có một khu vực nghiên cứu có thể nhìn
thông suốt ra Thái Bình Dương.
Local zoning codes
restricted the height of the buildings so that the first two stories had to be
underground. This did not, however, prevent the architect from bringing in
daylight: he designed a series of light wells 40 feet long and 25 feet wide on
both sides of each building to bring daylight into the lowest level.
Do quy
định tại địa phương về hạn chế chiều cao của tòa nhà nên hai hai tầng đầu tiên
phải được làm ngầm . Tuy nhiên, điều này đã không ngăn kiến trúc sư đưa ánh
sáng tự nhiên vào trong công trình: ông đã thiết kế một loạt các giếng trời cao
hơn 12m, rộng 7,6m ở cả hai mặt của mỗi tòa nhà để đưa ánh sáng tự nhiên xuống
đến tầng thấp nhất.
The collaboration
between Louis Kahn and Jonas Salk produced a design for a facility uniquely
suited to scientific research. The next challenge was to realize it through the
use of materials that could last for generations with only minimal maintenance.
The materials chosen for this purpose were concrete, teak, lead, glass, and
special steel. The poured-in-place concrete walls create the first bold
impression for visitors. Kahn actually went back to Roman times to rediscover
the waterproof qualities and the warm, pinkish glow of "pozzuolanic"
concrete. Once the concrete was set, he allowed no further processing of the
finish—no grinding, no filling, and above all, no painting. The architect chose
an unfinished look for the teak surrounding the study towers and west office
windows, and he directed that no sealer or stain be applied to the teak. The
building's exterior, with only minor required maintenance, today looks much as
it did in the 1960s.
Sự hợp
tác giữa Louis Kahn và Jonas Salk đã tạo ra một thiết kế độc đáo, phù hợp cho
nghiên cứu khoa học. Thách thức tiếp theo là việc sử dụng các vật liệu có thể
tồn tại trong nhiều thế hệ với sự bảo trì tối thiểu. Các vật liệu được lựa chọn
là bê tông, gỗ tếch, chì, thủy tinh và thép đặc biệt. Các bức tường bê tông đổ
tại chỗ tạo ra những ấn tượng đậm nét đầu tiên. Kahn thực sự quay trở về thời
đại La Mã để tìm các đặc tính không thấm nước, ấm áp, sắc hồng nhạt của bê tông
pozzuolanic. Sau khi bê tông đã được đổ, ông đã không tiếp tục các công tác
hoàn thiện - không mài, không trám, và hơn cả là không sơn. Kiến trúc sư đã
cũng không hoàn thiện các cấu kiện gỗ tếch xung quanh các tòa tháp (phục vụ
nghiên cứu) và cửa sổ của văn phòng phía tây, và ông yêu cầu không nhuộm màu
lên gỗ tếch. Bên ngoài của tòa nhà, do việc ít phải bảo trì, ngày nay nó vẫn
trông giống như khi nó mới hoàn thành vào những năm 1960..
The open plaza is
made of travertine marble, and a single narrow strip of water runs
down the center, linking the buildings to the vast Pacific
Ocean. A person’s view is then directed
towards nature, reminding people of their scale compared to that of the
ocean. The strip of water also enhances the symmetry intended in the
plan and creates a sense of monumentality in the otherwise bare open plaza that
is meant to be in the words of Luis Barragan “a facade to the sky.”
Quảng
trường mở được làm bằng đá cẩm thạch, có một dòng nước hẹp duy nhất chảy xuống
trung tâm, nối các tòa nhà với Thái Bình Dương bao la. Do đó, tầm nhìn được hướng
tới thiên nhiên, nhắc nhở con người về sự nhỏ bé của trước đại dương. Dòng nước
còn tăng thêm tính đối xứng trong của công trình và tạo ra một cảm giác về tính
hoành tráng của quảng trường mở mà Luis Barragan đã nhận xét đó là “mặt tiền của
công trình đối với bầu trời”.
In the beginning the
buildings were made up of different kinds of cement mixes. Kahn wanted to see
what kind of mixture would best work as well as look the best. Each mixture had
a different color. In the basement of the complex, there are different colored
cement walls because Kahn was experimenting with the mixtures. Kahn also added
wood to the complex. Kahn wanted the wood and the cement to complement each
other.
Trong
giai đoạn đầu, các tòa nhà được xây từ hỗn hợp các loại xi măng trộn lẫn với
nhau. Kahn muốn có một tổ hợp để có thể vận hành tốt nhất cũng như tạo ra hình ảnh
đẹp nhất. Mỗi hỗn hợp xi măng sẽ cho màu sắc khác nhau. Ở khu tầng hầm, những bức
tường bê tông màu sắc khác nhau, vì Kahn đang thử nghiệm với các hỗn hợp xi
măng. Kahn cũng đưa gỗ vào công trình. Ông muốn gỗ và xi măng bổ sung cho nhau.
The idea for the open
plaza or “façade to the sky” actually came from Kahn’s contemporary, Luis
Barragan. This relationship of the plaza to the sky and its magnificent view of
the Pacific are often compared to the villas of Rome or a Greek temple on the
Aegean (Wiseman 2007). The very presence of a space with no true function other
than contemplation or enjoyment in itself was very anti-Modern.
Ý
tưởng cho quảng trường mở hoặc "mặt tiền cho bầu trời" thực sự đến từ
hiện đại, Luis Barragan. Mối quan hệ của quảng trường với bầu trời và cảnh quan
tuyệt đẹp của Thái Bình Dương thường được so sánh với các biệt thự của Roma hoặc
một ngôi đền Hy Lạp trên Aegean. Sự hiện diện của một không gian không có chức
năng thật sự khác với chiêm niệm hay thưởng thức trong chính nó là rất phi-Hiện
đại.
The buildings
themselves have been designed to promote collaboration, and thus there are no
walls separating laboratories on any floor. The lighting fixtures have been
designed to easily slide along rails on the roof, in tune with the
collaborative and open philosophy of the Salk Institute's science.
Để
khuyến khích sự hợp tác, các sàn tầng được thiết kế không có bức tường ngăn
cách các phòng thí nghiệm. Các thiết bị chiếu sáng được thiết kế để dễ dàng trượt
dọc theo đường ray trên mái, phù hợp với triết lý hợp tác và cởi mở của Viện
Salk.
At first Kahn wanted
to put a garden in the middle of the two buildings. As construction continued,
Kahn did not know what shape it should take. Kahn saw an exhibit of Luis
Barragan's work at the Museum of Modern Art in New York. Kahn invited
Baragan to collaborate on the court that separated the two buildings. Barragan
told Kahn that he should not add one leaf, nor plant, not one flower, nor dirt.
Instead, make it a plaza with a single water feature. The resulting space is
considered the most impressive element of the entire design.
Lúc
đầu Kahn muốn đặt một khu vườn ở giữa hai tòa nhà. Khi đến giai đoạn xây dựng,
Kahn đã không biết sử dụng hình dạng nào cho khu vườn. Kahn đã tham quan một
triển lãm của Luis Barragan tại Bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại ở New York. Kahn mời
Baragan để cộng tác thiết kế khoảng sân ngăn cách hai tòa nhà. Barragan nói với
Kahn rằng ông không nên thêm một chiếc lá, hay một cái cây, không phải một bông
hoa hay bụi bẩn. Thay vào đó, nên làm cho nó là một quảng trường với một tính
năng nước duy nhất. Ý tưởng này được coi là yếu tố ấn tượng nhất của toàn bộ
thiết kế.
The water feature
running the axis of the central plaza is one of the most non-Modern elements of
the Salk Institute. It serves no real function other than to add a visual
element to the courtyard. In some sense, it opposes the modern rejection of
ornamentation.
Tuyến
kênh nước chạy theo trục của quảng trường trung tâm là một trong những yếu tố
không hiện đại nhất của Viện Salk. Nó không có chức năng thực tế ngoài việc là
một yếu tố hình ảnh vào sân. Theo một nghĩa nào đó, nó không phản đối việc
trang trí.
Added to the central
channel was a “sculptural cistern” at the west end of the site. The cascading
pools of the cistern are thought to be inspired by either the Mughal garden
Kahn saw in India and Pakistan or the Alhambra in Spain (Wiseman 2007). Either
way, it is clear that there are pre-Modern influences. Although at first sight
there are striking modern elements, like the use of rectilinear forms and
slabs, the presence of travertine marble and a water feature suggest Kahn’s
pre-Modern influences. The “sculptural cistern” also features its own use of
hierarchy and monumentality that one might find in a classical fountain.
Additionally, it is completely symmetrical, with the water channel dividing it
into two equal halves.
Một
chiếc bể giàu tính điều khắc được đặt ở đầu phía Tây của tuyến kênh nước
(Wiseman 2007). Kiểu hồ bơi chảy như thác được cho là lấy cảm hứng từ khu vườn
Mughal Kahn ở Ấn Độ và Pakistan hoặc Alhambra ở Tây Ban Nha. Dù bằng cách nào,
rõ ràng rằng đã có những ảnh hưởng của tiền-Hiện đại. Mặc dù ngay từ cái nhìn đầu
tiên, những yếu tố hiện đại nổi bật lên, như việc sử dụng các khối, diện vuông,
thẳng, sự hiện diện của đá cẩm thạch và tuyến kênh nước đã thể hiện những ảnh
hưởng của tiền-Hiện đại đến thiết kế của Kahn. Các "bể điêu khắc"
cũng có tính năng sử dụng của mình trong hệ thống được phân cấp và sự hoành
tráng mà người ta có thể tìm thấy trong một đài phun nước cổ điển. Ngoài ra, nó
là hoàn toàn đối xứng, tuyến kênh nước đã chia nó thành hai phần bằng nhau.
According to A.
Perez, the concrete was made with volcanic ash relying on the basis of ancient
Roman concrete making techniques, and as a result gives off a warm, pinkish
glow. Each laboratory block has five study towers, with each tower containing
four offices, except for those near the entrance to the court, which only
contain two. A diagonal wall allows each of the thirty-six scientists using the
studies to have a view of the Pacific, and every study is fitted with a combination
of operable sliding and fixed glass panels in teak wood frames. Originally the
design also included living quarters and a conference building, but they were
never actually built.
Theo
A. Perez, bê tông đã được trộn với tro núi lửa dựa trên cơ sở kỹ thuật làm bê
tông La Mã cổ đại, và kết quả là cho ra một loại bê tông đem lại cảm giác ấm
áp, có sắc hồng sáng. Mỗi khối công trình có năm tòa tháp phục vụ nghiên cứu, mỗi
tòa tháp chứa bốn văn phòng, ngoại trừ những phòng ở gần lối vào tòa án, mà chỉ
có hai văn phòng. Một bức tường chéo cho phép mỗi ba mươi sáu nhà khoa học sử dụng
các nghiên cứu để có một cái nhìn của Thái Bình Dương, và mỗi không gian nghiên
cứu được tạo ra bởi sự kết hợp của các vách kính có thể trượt và cố định trong
khung gỗ tếch. Thiết kế nguyên bản cũng có khu nhà ở và phòng hội nghị, nhưng
chúng đã không được xây dựng.
The foremost aspect
of the exterior of the Salk Institute is its reinforced concrete construction.
Kahn was more than masterful in his use of concrete for the institute, even
experimenting with several types and mixtures before settling on a final
product. Special attention was paid to the board-forming process and the forms
the process left in the concrete. In contrast, the less modern materials of
marble and wood were used for the courtyard and office screens, respectively.
Viewing the North or South elevations, one can see how the nearly symmetrical
plan and repetition of five monolithic rectilinear forms can evoke images of
classical columns. The sheer size and imposing forms evoke the monumental feel
Kahn was intentionally trying to express in his architecture. Additionally, the
symmetry of the plan reflects an embracing of certain pre-Modern ideas.
Khía
cạnh quan trọng nhất trong vẻ ngoài của Viện Salk là vật liệu bê tông cốt thép.
Kahn còn hơn cả một bậc thầy trong việc sử dụng bê tông của mình cho các viện
nghiên cứu, thậm chí thử nghiệm với một số loại và hỗn hợp trước khi quyết định
được sản phẩm cuối cùng. Đặc biệt chú ý đến quá trình chế tạo ván khuôn và tạo
hình sau khi ván khuốn tháo ra khỏi khối bê tông. Ngược lại, vật liệu ít hiện đại
như đá cẩm thạch và gỗ đã được sử dụng cho các sân và các vách ngăn văn phòng.
Xem các cao độ Bắc hay Nam, một có thể thấy mặt bằng gần như đối xứng và sự lặp
lại của năm đơn nguyên dạng thẳng đứng có thể gợi lên hình ảnh của các cột cổ
điển. Quy mô và hình thức áp đặt gợi lên cảm giác hoành tráng mà Kahn đã cố gắng
thể hiện trong kiến trúc của ông. Ngoài ra, sự đối xứng của mặt bằng đã phản
ánh sự chấp nhận một số ý tưởng tiền- Hiện đại.
The Salk Institute’s
open environment teeming with empty space is symbolic of an open environment
for creation, the symmetry stands for scientific precision, and submerging crevasses
allow warm, natural light to enter the buildings like the intellectual light
that leads to discovery. The contrast between balance and dynamic space
manifests a pluralistic invitation for scientific study. Although modern in
appearance, it is essentially an isolated compound for individual and
collaborative study not unlike monasteries as sanctuaries for religious
discovery, and they are thought to have directly influenced Kahn in his design.
Ultimately, the Salk Institute’s meaning can be interpreted as transcending
function and physical place as a reflection of Western Civilization’s pursuit
of truth through science.
Không
gian mở của Viện Salk đầy ắp khoảng trống là biểu tượng của một môi trường mở kích
thích sự sáng tạo, sự đối xứng đứng biểu
trưng cho tính chính xác khoa học, và các ô thoáng cho phép ánh sáng tự nhiên
và nhiệt độ ấm áp vào trong tòa nhà như ánh sáng trí tuệ tạo nên những khám phá
mới. Sự tương phản giữa không gian tĩnh và không gian động biểu hiện một lời mời
gọi đa nguyên tham gia nghiên cứu khoa học. Mặc dù hiện đại về hình dáng bên
ngoài, về cơ bản công trình được cô lập để dành cho nghiên cứu của cá nhân và tập
thể không phải không giống như các tu viện nơi ẩn náu để có khám phá tôn giáo,
và họ được cho là đã ảnh hưởng trực tiếp đến thiết kế của Kahn. Cuối cùng, ý
nghĩa của Viện Salk có thể được giải thích như là hơn cả một địa điểm, một mục
đích sử dụng thong thường mà còn là sự phản ảnh về việc theo đuổi tư duy khoa học
chân chính của văn minh phương Tây.
In 1992, the Salk received
a 25-Year Award from the American Institute of Architects (AIA) and was
featured in the AIA exhibit “Structures of Our Time: 31 Buildings That
Changed Modern Life”. The Salk Institute has been described in the San
Diego Union-Tribune as the single most significant architectural site in
San Diego, been regarded as of the most inspirational works of architecture in
the world.
No comments:
Post a Comment