Saturday, January 31, 2015
To what do you relate the fine aspects of your problems?
I really look for the nature of something. When I am doing the school, I would try to solve it by "school", rather than "a school". First, there is the aspect of why "school" is different from something else. I never read a program literally. This is a circumstantial thing. How much money you have, and where it is tobe, and it is tobe, and the number of things you need have nothing to do with the nature, and then you are confronted the program. Look at the nature of it, and you see in the program that you want... a library, for instance. The thing that is done is the rewriting of the program. Now this must be accompanied by something which interprects it. Your program alone would not mean anything, because you are dealing with spaces. So you would send back your sketches which encompass your thought about what the nature it is. Invariably, more spaces are required because every program written by an non-architect is board to be a copy of some other school or some other building.
It's like writing to Picasso and sayin, "I want my portrait painted...I want two eyes in it... and one nose...and only one mouth, please." You can't do that, because you are talking about the artist. He is not this way. The nature of painting is such that you can make the skies black in the daytime. You can make a red dress blue, You can make doorways smaller than people. As the painter, you have the preprogative. If you want a photograph, ou get a photographer. If you want an architect, you deal with spaces...spaces which are inspired...and so you need to reconsider the requirements for the nature of the environment which inspires the activity of that insitution of man. You see in a shool or an office building, or church, or a factory, or a hospital an institution of man.
Louis Kahn
Thursday, January 29, 2015
Materials
Realization is Realization in Form, which means a nature. You realize that something has certain nature. A school has a certain nature, and in making a school the consultation and approval of nature are absolutely necessary. In such a consultation ou can discover the Order of water, the Order of the wind, the Order of light, the Order of certain materials. If you think of brick. You say to brick, "What do you want, brick?". Bricks say to you, "I like an arch". If you say to brick, "Arches are expensive, and I can use a concrete lintel over an opening. What do you think of that, brick?". Brick says, "I like an arch".
Louis Kahn
Silence and Light
Inspiration is the feeling of beginning at the threshold where Silence and Light meet. Silence, the unmeasuable, desire tobe, desire to express, the source of new need, meets Light, the measurable, giver of all presence, by will, by law, by the measure of things already made, at a threshold which is inspiration, the sanctuary of art, the Treasury of Shadow.
The artist offers his work to his art in the sancturay of all expression, which I like to call the Treasury of the Shadow, lying in that ambiance: Light ti Silence, Silence to Light. Light, the giver of presence, casts its shadow, which belongs to Light. What is made belongs to Light and to Desire.
I likened the emergence of Light to a manisfestation of two brother, knowing quite well that there are not two brothers, nor ever one. But I saw that one is the embodiment of the desire to be, to express, and one (not saying "the other") is tobe, tobe. The later is nonluminous. This prevailing luminous source can be visualized as becoming a wild dance of flame that settles and spends it self into material. Material, I believe, is spent Light.
Louis Kahn.
Order
I tried to find what Order is, I was excited about ir, and I wrote many, many words of what Order is. Everytime I wrote something, I felt its wasn't quite enough. If I had covered, say, two thousand pages with just words of what Order is, I wouldnot be satisfied with this statement. and then I stopped by not saying what it is, just saying, "Order is". And somehow I wasn't sure it was complete untill I asked somebody, and then person I asked said, "You must stop right there. It's mavelous; just stop there, saying, "Order is".
Louis Kahn
Bảo tàng nghệ thuật Kimbell
The Kimbell
Art Museum in Fort Worth, Texas, hosts a small but excellent
art collection as well as traveling art exhibitions, educational programs and
an extensive research library. Its initial artwork came from the private
collection of Kay and Velma Kimbell, who also provided funds for a new building
to house it.
Bảo
tàng Nghệ thuật Kimbell ở Fort Worth, Texas, sở hữu một bộ sưu tập nghệ thuật
nhỏ nhưng tuyệt vời cũng như để đến tham quan triển lãm nghệ thuật, tham gia
các chương trình giáo dục và một thư viện nghiên cứu mở rộng. Các tác phẩm nghệ
thuật ban đầu của bảo tàng từ các bộ sưu
tập cá nhân của Kay và Velma Kimbell, đồng thời cũng là những người đã đầu tư
kinh phí để xây dựng một trung tâm mới để lưu giữ chúng.
The Kimbell Art
Museum’s original building, designed by Louis Kahn and opened to the public for
the first time in 1972, has become a mecca of modern architecture. It is
especially noted for the wash of silvery natural light across its vaulted
gallery ceilings.
Nguyên
bản của công trình Bảo tàng Nghệ thuật Kimbell, được thiết kế bởi Louis Kahn và
được mở cửa cho công chúng lần đầu tiên vào năm 1972, đã trở thành một thánh địa
của kiến trúc hiện đại. Nó được đặc biệt chú ý vì khả năng lọc ánh sáng tự
nhiên màu bạc xuyên qua các mái vòm của khu trưng bày.
The museum is
composed of 16 parallel vaults that are each 100 feet (30.6 m) long, 20 feet (6
m) high and 20 feet (6 m) wide (internal measurements). Intervening low channels separate the vaults. The vaults
are grouped into three wings. The north and south wings each have six vaults,
with the western one open as a portico.
The central space has four vaults, with the western one open as an entry porch
facing a courtyard partially enclosed by the two outside wings.
Các
bảo tàng gồm 16 mái vòm song song mà mỗi mái dài 30,6 m, cao 6 m và rộng 6 m
(trong lòng). Các rãnh thấp ở giữa phân chia các mái. Các mái vòm được nhóm lại
thành ba cánh. Cánh phía bắc và phía nam có sáu vòm, một mái vòm ở phía Tây mở
ra như một mái hiên. Không gian trung tâm có bốn mái vòm, với một mái vòm ở
phía Tây mở như một hiên thập đối diện với một sân trong bao bọc bởi hai cánh
bên ngoài.
With one exception,
the art galleries are located on the upper floor of the museum to allow access
to natural light. Service and curatorial spaces as well as an additional
gallery occupy the ground floor. Each
interior vault has a slot along its apex to allow natural light into the
galleries. Air ducts and other mechanical services are located in the flat channels
between the vaults.
Với
một ngoại lệ, các phòng trưng bày nghệ thuật được đặt trên tầng trên của bảo
tàng để cho phép tiếp cận được ánh sáng tự nhiên. Không gian dịch vụ và giám
tuyển cũng như một phòng trưng bày thêm được bố trí ở tầng trệt. Mỗi mái vòm có
một khe dọc đỉnh của nó để cho phép ánh sáng tự nhiên đi vào phòng trưng bày.
Đường ống dẫn khí và các dịch vụ cơ khí khác được đặt trong rãnh phẳng giữa các
mái vòm.
Kahn used several
techniques to give the galleries an inviting atmosphere. The ends of the
vaults, which are made of concrete block, are faced with travertine inside and out. The museum has three
glass-walled courtyards that bring natural light to the gallery spaces. One of
them penetrates the gallery floor to bring natural light to the conservation
studio on the ground floor.
Bảo
tàng có ba sảnh bao quanh bằng tường vách kính mang lại ánh sáng tự nhiên cho
các không gian trưng bày. Một trong số chúng “ăn” cả vào tầng trưng bày triển
lãm để đưa ánh sáng tự nhiên đến khu vực lưu trữ ở tầng trệt. Kahn sử dụng một
số kỹ thuật để làm cho các phòng trưng bày một bầu không khí lôi cuốn. Các đầu
hồi của mái vòm được làm bằng bê tông ốp đá vôi cả mặt trong và mặt ngoài.
The landscaping has
been described as "Kahn's most elegant built example of landscape
planning" by Philadelphia landscape architect George Patton. Approaching the main entrance
past a lawn edged by pools with running water, the visitor enters a courtyard
through a grove of Yaupon holly trees. The sound of footsteps on the gravel
walkway echoes from the walls on either side of the courtyard and is magnified
under the curved ceiling of the entry porch. After that subtle preparation, the
visitor enters the hushed museum with silvery light spread across its ceiling.
Cảnh
quan của bảo tàng được kiến trúc sư cảnh quan Philadelphia George Patton cho là
"thanh lịch nhất của Kahn, một thiết kế cảnh quan điển hình". Lối vào
chính đi qua một bãi cỏ có đường biên là những hồ nước chảy, khách tham quan phải
đi qua một hang cây nhựa ruồi để vào sân. Những âm thanh từ bước chân trên lối
đi rải sỏi dội vang lại từ các bức tường ở hai bên sân và được phóng đại bởi
mái trần cong của cổng vòm. Sau giai đoạn chuẩn bị tinh tế đó, khách tham quan
đi vào không gian tĩnh lặng của bảo tàng với ánh sáng sang màu bạc lan tỏa trên
các mái trần.
STRUCTURE
KẾT CẤU
“The room is the beginning of architecture.”
- Louis I. Kahn
“Căn
phòng là nơi bắt đầu của kiến trúc” - Louis I. Kahn
Một
trong những nhiệm vụ cơ bản của kiến trúc sư là tạo lập được cấu trúc, hoặc sắp
xếp các hình thức, mà công trình sẽ có. Mỗi kiến trúc sư có một cách tiếp cận
cá nhân để phát triển là ý tưởng ban đầu. Kahn thường được trích dẫn với câu hỏi
đầu tiên, "Công trình này muốn trở thành cái gì?". Ông tin rằng bản
chất của cấu trúc bắt đầu từ những căn phòng, về cách mà không gian đó sẽ được
sử dụng như thế nào và cảm giác nó mang lại. Từ đó, các công trình phát triển
thành "tập hợp của những căn phòng có quan hệ mật thiết" với một mặt
bằng đơn giản dựa trên tỷ lệ cổ điển, sự lặp lại, và biến thể.
In the case of the
Kimbell, director Richard Brown provided an initial list of important
considerations for generating ideas for the structure. In that
“Pre-Architectural Program,” Brown specifically stated that “natural light
should play a vital part in illumination.” This stipulation, along with Kahn’s
own strong interest in the use of natural light, resulted in Kahn’s early
concept of a room with a vaulted ceiling that would allow natural light to
enter the space from above. The vault also appealed to Kahn’s admiration for
ancient structures—from Roman arches and storage warehouses to Egyptian
granaries.
Trong
trường hợp của bảo tàng Kimbell, giám đốc Bảo tàng, Richard Brown đã đưa ra một
danh sách những tiêu chí quan trọng để xây dựng ý tưởng cho công trình. Trong
"Nhiệm vụ thiết kế kiến trúc," Brown nêu cụ thể rằng "ánh sáng tự
nhiên cần đóng vai trò quan trọng trong việc chiếu sáng." Quy định này,
cùng với sự quan tâm sâu sắc của Kahn trong việc sử dụng ánh sáng tự nhiên, dẫn
đến ý tưởng ban đầu của Kahn của là căn phòng với mái vòm sẽ cho phép ánh sáng
tự nhiên từ bên trên chiếu xuống. Mái vòm cũng là cấu trúc mà Kahn yêu thích từ
những công trình vòm La Lã và kho chứa của Ai Cập cổ đại.
Kahn's first design
for the galleries called for angular vaults of folded
concrete plates with light slots at the top. Brown liked the light slots but
rejected this particular design because it had the ceilings 30 feet (9 m) high,
too high for the museum he envisioned.
Thiết
kế đầu tiên của Kahn cho các phòng trưng bày là các mái vòm dạng góc thẳng bằng
các tấm bê tông gấp khúc có khe lấy sang trên đỉnh. Brown thích các khe ánh
sáng, nhưng từ chối bản thiết kế đặc biệt này bởi vì nó có trần cao 9 m, ông
nghĩ là nó quá cao đối với các bảo tàng.
Further research by
Marshall Meyers, Kahn's project architect for the Kimbell museum, revealed that
using acycloid curve for the
gallery vaults would reduce the ceiling height and provide other benefits as
well. By mathematical definition, the cycloid is the curve traced by a point on
the circumference of a circle that rolls on a straight line without slipping.
The relatively flat cycloid curve
would produce elegant galleries that were wide in proportion to their height,
allowing the ceiling to be lowered to 20 feet (6 m). More importantly, that
curve could also be used to produce a beautiful distribution of natural light
from a slot in the top of the gallery across the entire gallery ceiling.
Nghiên
cứu sâu hơn của Marshall Meyers, kiến trúc sư ở dự án của Kahn ở bảo tàng
Kimbell tiết lộ rằng việc sử dụng đường cong acycloid cho mái vòm phòng triển
lãm sẽ làm giảm chiều cao trần nhà cũng như tạo ra các hiệu quả khác. Theo định
nghĩa toán học, đường cycloid là những đường cong bắt nguồn bởi một điểm trên
chu vi của một vòng tròn lăn trên một đường thẳng mà không bị trượt. Các đường
cong tương đối thấp sẽ tạo cho phòng trưng bày sự trang nhã có chiều rộng tương
ứng với chiều cao của chúng, cho phép giảm độ cao mái vòm còn 6 m. Quan trọng
hơn, đường cong này còn có thể được sử dụng để phân phối ánh sáng tự nhiên đi
vào từ một khe lấy sáng ở phía trên lên toàn bộ mái trần phòng triển lãm.
As opposed to semicircular vaults, the cycloid
vault has gently rising sides that give the impression of monumentality without
overpowering the visitor. This geometric form is capable of supporting its own
weight and has been likened to an eggshell for its ability to withstand heavy
pressure. At the Kimbell, the weight for each vault is directed through four
corner columns measuring two square feet. Unlike classical precedents, Kahn’s
vaults are interrupted at the top by skylights and require concrete struts that
connect the shells at ten-foot intervals. Additionally, Kahn and his engineers
placed long steel cables inside along the length of each vault. After the
concrete had hardened for a week, hydraulic jacks were used tighten the cables
to create a system of post-tensioning that distributes and supports the weight
of the roof—similar to a suspension bridge.
Khác
với vòm hình bán nguyệt, vòm hình cycloid vươn lên nhẹ nhàng từ hai bên tạo cho
khách tham quan cảm giác hoành tráng mà không gây ra sự chế ngự. Hình dạng này
của vòm có khả năng tự chịu được trọng lượng bản thân nó và được ví như vỏ trứng
với khả năng chịu được áp lực lớn. Tại bảo tàng Kimbell, trọng lượng cho mỗi
mái vòm được truyền xuống bốn cột góc có diện tích khoảng 0,19m2..
Không giống như các công trình cổ điển, mái vòm của Kahn được tạo khoảng trống ở
trên đỉnh để cho ánh sáng ngoài trời và, do đó, phải có 10 thanh giằng bê tông
nối hai bên vòm. Ngoài ra, Kahn và các kỹ sư của ông đã đặt cáp bên trong dọc
theo chiều dài của mỗi mái vòm. Sau một tuần, khi bê tông đã đông cứng, các
kích thủy lực được sử dụng để kéo các dây cáp, tạo ra kết cấu dự ứng lực tương
tự nhằm phân phối và đỡ trọng lượng của mái, tương tự như ở cầu treo.
Kahn was pleased with
this development because it allowed him to design the museum with galleries
that resembled the ancient Roman vaults he had always admired. The thin, curved
shells needed for the roof were challenging to build, however, so Kahn called
in a leading authority on concrete construction, August Komendant, with
whom he had worked before (and who, like Kahn, was born in Estonia). Kahn generally referred
to the museum's roof form as a vault, but Komendant
explained that it was actually a shell playing
the role of a beam.
More precisely, as professor Steven Fleming points out, the shells that form
the gallery roofs are "post-tensioned curved
concrete beams, spanning an incredible 100 feet" (30.5 m).
Kahn
hài lòng với phương án này bởi vì nó cho phép ông thiết kế bảo tàng với các
phòng trưng bày giống với loại vòm La Mã cổ đại mà ông luôn ngưỡng mộ. Các mái
cong, mỏng là một thử thách cho việc xây dựng, vì vậy Kahn đã liên hệ với kỹ sư
hàng đầu về xây dựng bê tông, August Komendant, người mà ông đã từng làm việc
trước đây (và giống như Kahn, ông sinh ra tại Estonia). Kahn thường gọi hình thức
mái của bảo tàng là mái vòm, nhưng Komendant giải thích rằng nó thực sự đóng
vai trò là một dầm. Chính xác hơn, như giáo sư Steven Fleming chỉ ra, các tấm vỏ
tạo nên mái của phòng triển làm là "dầm cong dự ứng lực bê tông, vượt qua
khẩu độ đáng kinh ngạc 30,5 m”.
Like classical
buildings (such as the Parthenon), the Kimbell’s structure is based on a
consistent mathematical model. The basic plan is composed of sixteen cycloid
vaults (100 x 20 feet) that are arranged in three parallel units of six, four,
and six in the Kimbell. Other elements are based on a ratio of 20 to 10. For
example, on the floor, wood sections measure 20 feet and travertine sections
are 10 feet. The building is based on these “rules” of logic, enabling the
visitor to easily follow and “read” the structure.
Tương
tự các công trình cổ điển (như đền Parthenon), kết cấu của bảo tàng Kimbell được
dựa trên một mô hình toán học thích hợp. Các mặt bằng chính của bảo tàng
Kimbell có mười sáu mái vòm cycloid (30,5 x 6,1 m) được sắp xếp trong ba khối
song song song song với nhau tương ứng gồm sáu, bốn, và sáu mái vòm. Các bộ phận
khác đều dựa trên một tỷ lệ 2:1. Ví dụ, trên sàn, diện tích phần gỗ rộng 6,1 m
và phần đá là 3,05 m. Công trình tuân theo những "quy tắc" của logic,
cho phép khách tham quan dễ dàng theo dõi và "đọc" được cấu trúc của
bảo tàng.
True vaults, such as the Roman
vaults that Kahn admired, will collapse if not supported along the entire
lengths of each side. Not fully understanding the capabilities of modern concrete shells, Kahn
initially planned to include many more support columns than were necessary for
the gallery roofs. Komendant was able to use post-tensioned
concrete that was only five inches thick to create gallery
"vaults" that need support columns only at their four corners.
Những
mái vòm thực sự, như mái vòm kiểu La Mã mà Kahn ngưỡng mộ, sẽ sụp đổ nếu nó
không được chống đỡ dọc theo toàn bộ chiều dài của mỗi bên. Không hiểu đầy đủ
khả năng của vỏ bê tông hiện đại, ban đầu Kahn dự định cần có nhiều cột chống đỡ
hơn cho kết cấu mái của các phòng triển lãm. Komendant đã sử dụng bê tông dự ứng
lực dày chỉ hơn 12cm để tạo ra những mái vòm phòng triển lãm mà chỉ cần 4 cột
chống ở bốn góc.
The Geren firm, which
had been asked to look for ways to keep costs low, objected that the cycloid vaults would
be too expensive and urged a flat roof instead. Kahn, however, insisted on a
vaulted roof, which would enable him to create galleries with a comforting,
room-like atmosphere yet with minimal need for columns or other internal
structures that would reduce the museum's flexibility. Eventually a deal was
struck whereby Geren would be responsible for the foundation and basement while
Komendant would be responsible for the upper floors and cycloid shells. Kahn
placed one of these shells at the front of each of the three wings as a porch
or portico to illustrate
how the building was constructed. The effect was, in his words, "like a
piece of sculpture outside the building." The vault roofs, which are
visible to approaching visitors, were covered with lead sheathing inspired by
the lead covering of the complexly curved roofs of the Doge's Palace and St. Mark's
Basilica in Venice, Italy.
Hãng
Geren, đơn vị được yêu cầu phải tìm mọi cách để giữ chi phí thấp, đã phản đối rằng
các mái vòm cycloid sẽ quá tốn kém và kêu gọi dùng mái bằng thay thế. Tuy nhiên
Kahn khẳng định là một mái vòm sẽ cho phép tạo ra các phòng trưng bày thoải mái
như đứng dưới bầu trời với số lượng tối thiểu các cột hay các kết cấu khác mà sẽ
làm giảm tính linh hoạt của bảo tàng. Cuối cùng một thỏa thuận đã được lập ra,
theo đó Geren sẽ chịu trách nhiệm cho phần móng và tầng hầm, trong khi
Komendant sẽ chịu trách nhiệm cho các tầng trên và vỏ mái cycloid. Kahn đã đặt
một trong những mái vòm ở phía trước của mỗi cánh làm thành mái hiên hoặc để
minh họa cho cách tòa nhà được xây dựng. Hiệu quả là, theo lời ông, "giống
như một mảnh điêu khắc bên ngoài tòa nhà." Những mái vòm mà khách tham
quan có thể nhận ran ngay khi đến gần bảo tàng được bao bọc bằng chì, theo cảm
hứng từ những mái cong phức tạp của Cung điện Doge và Nhà thờ St.Mark’s
Basilica ở Venice, Italy.
Although the
structure is based on a simple plan of unadorned, repeated forms, Kahn also
introduced variations on those basic forms and “themes.” The porticos at the
Kimbell’s entrance on the west side of the building first introduce the vault
to the approaching visitor and demonstrate the form’s versatility. Within the
Museum, visitors see that vaults cover the galleries, an auditorium, and the
Buffet Restaurant. Kahn also varied the size of the courtyards. The North
courtyard is 40 square feet, while the South courtyard is 20 square feet.
Mặc
dù cấu trúc này được dựa trên mặt bằng đơn giản không có trang trí, các hình thức
được lặp lại, nhưng Kahn đã tạo ra các biến thể từ những hình thức cơ bản và
"các yếu tố chủ đạo." Các mái cổng ở lối vào của bảo tàng Kimbell ở
phía tây đã giới thiệu về những mái vòm và trình diễn về sự linh hoạt của hình
thức cho khách tham quan ngay trước khi đi đến Bảo tàng. Bên trong bảo tàng,
khách tham quan có thể nhận ra các mái vòm bao trùm khu trưng bày như một thính
phòng hay một nhà hàng buffet. Kahn cũng đã thay đổi kích thước của các sân.
Sân phía Bắc rộng 3,7m2 , trong khi các sân phía Nam là 1,9 m2.
The “rooms” were
designed to relate to the visitor on an intimate level to enhance their
experience of the artworks on view. The space, in fact, was designed to be as
flexible as possible within the confines of the vaulted spaces. Moveable walls
can be attached to the soffits (the underside joint between arches) in
various configurations to best suit the Museum’s display needs.
Các
"căn phòng" được thiết kế để có sự liên hệ gần gũi với khách tham
quan để tăng cường cảm nhận của họ về các tác phẩm nghệ thuật khi tham quan.
Trên thực tế, các không gian đã được thiết kế linh hoạt nhất có thể trong giới
hạn bên dưới những mái vòm. Các bức tường di động có thể được gắn vào mặt dưới
(khớp nối bên dưới ở giữa các mái vòm) theo các cách khác nhau để phù hợp nhất
với nhu cầu trưng bày của Bảo tàng.
MATERIALS
VẬT LIỆU
“Natural materials
have a way of blending together.”—Louis I. Kahn
"Các
vật liệu tự nhiên có cách tự pha trộn được với nhau." - Louis I. Kahn
To make a structure
that will stand the test of time, architects choose materials that are strong
and durable, as well as pleasing to the eye. Kahn preferred simple forms and
natural materials. To achieve a sense of serenity and elegance in the Kimbell,
Kahn selected materials that complemented each other in tone and surface:
travertine, concrete, white oak, metal, and glass. Simple and unadorned, each
of these materials shows its innate character by its variation of texture.
Để
xây dựng một một công trình có thể đứng vững trước thử thách của thời gian, kiến
trúc sư lựa phải chọn các vật liệu bền, chắc cũng như đạt được thẩm mỹ. Kahn ưa
thích các hình thức đơn giản và vật liệu tự nhiên. Để tạo ra cảm giác thanh lịch
và sang trọng ở bảo tàng Kimbell, Kahn đã chọn các vật liệu tương hỗ nhau về sắc
độ và bề mặt như: đá, bê tông, gỗ sồi trắng, kim loại và thủy tinh. Đơn giản và
không trang trí, mỗi loại vật liệu bộc lộ các tính chất tự nhiên sẵn có của
mình theo sự biến đổi bố cục của chúng.
Concrete, according
to Kahn, was “a noble material if used nobly.” Revolutionizing the modern use
of materials, Kahn viewed concrete as both an aesthetic and structural choice.
In the Kimbell’s galleries, concrete vaults shimmer with light to create a
subtle luminosity that Kahn compared to a “silvery powdered moth’s wing.”
Reinforced concrete also supports the weight of the structure in the form of
vaults, walls, and piers. Creating the right look to the concrete was a matter
of serious importance to Kahn, who went to great lengths to select the proper
color (soft gray with lavender tones) determined by the mixture of sand and
cement. Numerous wall tests were poured and allowed to cure in the Texas sun
until they found the right surface qualities and perfect match for the soft
tones of the travertine. Kahn believed that buildings should tell the story of
how they were made and that incidents of the construction process should be
left as a visual record. Accordingly, when they occurred, marks from plywood
mold forms, bits of rubber, and air pockets remain for all to see (although the
workmen practiced to attain perfection).
Theo
Kahn, bê tông là "một vật liệu cao quý nếu nó được sử dụng một cách khéo
léo." Đột phá trong cách sử dụng hiện đại với các loại vật liệu, Kahn xem
bê tông cụ thể vừa là sự lựa chọn của kết cấu vừa là của thẩm mỹ. Trong các
phòng trưng bày của bảo tàng Kimbell, các mái vòm bằng bê tông tỏa ánh sáng mờ ảo
lung linh ạo ra một độ sáng tinh tế mà Kahn đã so sánh với một "cánh bướm
được phủ lớp bột bằng bạc." Bê tông cốt thép chịu lực của các kết cấu vòm,
tường, và cột chống. Tạo được cái nhìn đúng đắn về bê tông là một vấn đề hết sức
quan trọng đối với Kahn, người đã dày công tìm kiếm màu sắc thích hợp (màu xám
nhẹ với sắc xanh nhạt hơi pha đỏ) được tạo ra bằng hỗn hợp cát và xi măng. Một
số bức tường bê tông thử nghiệm đã được thi công và điều chỉnh ở Texas cho đến
khi họ đạt được đúng chất lượng bề mặt cần tìm và kết hợp hoàn hảo với các sắc
màu nhẹ nhàng của đá travertine. Kahn tin rằng công trình sẽ kể câu chuyện về
cách thức mà nó đã được xây dựng thực hiện và các lỗi trong quá trình xây dựng
nên được để lại như một dấu tích trực quan. Theo đó, khi chúng xảy ra, toàn bộ
những dấu vết của các ván khuôn gỗ ép, bịt cao su, và các túi khí vẫn còn lưu lại
cho mọi người thấy (mặc dù các công nhân hoàn thành công việc một cách hoàn hảo).
Travertine, on the
other hand, acts only as “in-fill” material. Kahn even called it wall paper.
(Glass and wood are also non-weight-bearing materials in the Museum.) The
travertine (a type of colored limestone) used for the Kimbell was imported from
Tivoli, near Rome, Italy. This material is riddled with irregularly shaped
holes left by gases and pieces of vegetation trapped in hardened layers of
calcium carbonate. Despite its “Swiss-cheese” texture, travertine is a durable
material and has been used since antiquity for countless buildings. Kahn was
deeply influenced by monuments and ancient ruins that he studied as a student
and sketched on his travels through Italy, Greece, and Egypt. In his own
buildings, Kahn used such materials as travertine to emulate the timeless and
monolithic qualities he so admired in those ancient structures. Over one
million pounds of travertine sheath much of the Kimbell’s interior and exterior
walls, gallery floors, porches, and stairs. These thin, rough-hewn pre-cut
slabs (5/8 inches thick) were shipped from Italy in 17 boatloads over nine
months. Fissures and openings were not filled. Every attempt was made to retain
the material’s natural appearance.
Mặt
khác, đá travertine chỉ đóng vai trò là vật liệu bổ trợ. Kahn thậm chí gọi đó
là tường bằng giấy. (Thủy tinh và gỗ này cũng không là vật liệu chính trong Bảo
tàng.) Đá travertine (một loại đá vôi màu) được sử dụng cho bảo tàng Kimbell được
nhập khẩu từ Tivoli, gần Rome, Italy. Vật liệu này có các lỗ thủng với hình dạng
bất thường do khí và các mảnh thảm thực vật bị mắc lại trong các lớp canxi
cacbonat đã hóa cứng. Mặc dù có cấu trúc kiểu "pho mát Thụy Sỹ", đá
travertine là một vật liệu bền và được sử dụng từ thời cổ đại cho rất nhiều các
công trình. Kahn đã chịu ảnh hưởng sâu sắc từ các di tích cổ đại mà ông đã
nghiên cứu khi là một sinh viên và vẽ phác thảo trên chuyến đi đến Ý, Hy Lạp và
Ai Cập. Trong các công trình của mình, Kahn đã sử dụng các vật liệu như đá
travertine để mô tả những phẩm chất vượt thời gian và nguyên khối mà ông rất
ngưỡng mộ trong những cấu trúc cổ xưa. Hơn một triệu pound (đơn vị cân của nước
Anh, 453,6 tấn) đá travertine được dùng để ốp tường nội thất và ngoại thất tường,
sàn phòng trưng bày, tiền sảnh, cầu thang ở bảo tàng Kimbell. Những tấm đá thô,
mỏng (dày 1,6cm) được cắt sẵn và vận chuyển từ nước Ý bằng 17 chuyến tàu trong
hơn chín tháng. Những vết nứt và khe hở đã không được trám giấu đi. Họ đã nỗ lực
để giữ được vẻ tự nhiên của vật liệu.
Lead was selected for
the roof cover for its color, dull sheen, and discreet, natural appearance.
Because this soft metal ages quickly, Kahn believed that it would look
consistent with the travertine and concrete. In keeping with his palette of
warm and cool tonal harmonies, Kahn also selected white oak for the gallery
floors, doors, and cabinetry; anodized aluminum (a light-weight metal noted for
its high reflectivity that has been covered with a protective oxide coating)
for the soffits and reflectors; and mill-finished steel for windows and door
frames, elevators, and handrails, as well as in the kitchen, conservation
studio, and darkroom. The Kimbell’s uniquely shaped handrails are made of
folded metal, because Kahn preferred emphasizing the sheet quality of the
material instead of pretending that it was worked like a solid material, such
as wood.
Chì
được chọn để phủ lên mái để tạo ra màu sắc xám xịt của mái, với vẻ bên ngoài mộc
mạc, tự nhiên. Do kim loại mềm này sẽ bị xỉn nhanh chóng, Kahn tin rằng trông
nó sẽ tương thích với đá travertine và bê tông. Để giữ được sự hài hòa màu sắc
giữa nóng và lạnh, Kahn cũng đã lựa chọn gỗ sồi trắng cho các tầng trưng bày, cửa
ra vào, và tủ gỗ; nhôm mạ (phủ lớp oxit) cho các mặt dưới và các tấm phản xạ;
và thép đã gia công hoàn thiện trong nhà máy cho các cửa sổ, khung cửa, thang
máy, và tay vịn, cũng như trong nhà bếp, phòng lưu trữ, và buồng tối. Tay vịn của
bảo tàng Kimbell có hình dạng độc đáo được làm từ kim loại được uốn cong, vì
Kahn nhấn mạnh việc ưu tiên tính chất của tấm thay vì làm ra vẻ nó đã được làm
từ một vật liệu đặc giống như gỗ.
LIGHTS
ÁNH SÁNG
“No space,
architecturally, is a space unless it has natural light.”- Louis I. Kahn
"Không
gian là kiến trúc chỉ khi nào nó có ánh sáng tự nhiên." - Louis I. Kahn
A person’s experience
of an architectural space is shaped by many factors, including its scale,
proportions, plan, and use of materials. In many buildings, and especially at
the Kimbell Art Museum, light performs a crucial role—illuminating the space
and creating a mood. In his teachings and designs, Louis Kahn constantly
stressed the importance of light in relation to structure. Natural light,
“dynamic, ever-changing,” he preferred above all other sources of illumination.
Trải
nghiệm của một người trong một không gian kiến trúc được hình thành bởi nhiều yếu
tố, bao gồm cả quy mô, tỷ lệ, mặt bằng, và cách sử dụng vật liệu. Trong nhiều
công trình, và đặc biệt là tại Bảo tàng Nghệ thuật Kimbell, ánh sáng đóng một
vai trò rất quan trọng - chiếu sáng không gian và tạo nên giai điệu. Trong lý
thuyết và thiết kế của mình, Louis Kahn liên tục nhấn mạnh tầm quan trọng của
ánh sáng liên quan đến cấu trúc. Ánh sáng tự nhiên, "năng động, luôn thay
đổi," là thứ ông ưa thích trên tất cả các nguồn chiếu sáng khác.
Many museum designs
primarily rely on artificial lighting to prevent direct sunlight from damaging
priceless and delicate works of art. Kimbell director Richard Brown, however,
felt that natural light should be used to illuminate museum spaces so that
visitors may be able to relate to nature and the effects of changing weather
while inside the Kimbell. This type of lighting also enables the visitor to see
the work of art more similarly to the way it would have been viewed by its
creator, under conditions of natural light. Kahn and Brown met well on this
topic, which became the inspiration for Kahn’s concept of the cycloid vault with
“narrow slits to the sky” that allowed natural light to enter and transform the
space. However, the works of art are not illuminated entirely by natural light
- lamps bolster the daylight to give a mixture of natural and artificial light
that is ideal for viewing works of art.
Nhiều
thiết kế bảo tàng chủ yếu dựa vào ánh sáng nhân tạo để ngăn chặn ánh sáng mặt
trời trực tiếp sẽ làm hỏng tác phẩm tinh tế và vô giá của nghệ thuật. Tuy
nhiên, Giám đốc Kimbell Richard Brown thấy rằng ánh sáng tự nhiên nên được sử dụng
để chiếu sáng không gian bảo tàng giúp cho du khách có thể tiếp xúc với thiên
nhiên và cảm nhận sự thay đổi của thời tiết khi ở bên trong bảo tàng Kimbell.
Đây là loại ánh sáng cho phép khách tham quan chiêm ngưỡng các tác phẩm nghệ thuật
tương tự như cách mà tác giả đã nhìn nó trong điều kiện ánh sáng tự nhiên. Kahn
và Brown có chung quan điểm về vấn đề này, đã tạo nguồn cảm hứng cho ý tưởng của
Kahn về các mái vòm cycloid với "khe hẹp liên thông với bầu trời" cho
phép ánh sáng tự nhiên đi xuống và biến đổi không gian. Tuy nhiên, không phải
các tác phẩm nghệ thuật được chiếu sáng hoàn toàn ánh sáng tự nhiên mà được
tăng cường bằng đèn chiếu, sự pha trộn giữa ánh sáng tự nhiên và ánh sáng nhân
tạo làm cho điều kiện chiêm ngưỡng các các tác phẩm nghệ thuật trở nên hoàn hảo.
In order to allow
light to enter the space without endangering precious artworks, Kahn envisioned
a metal “reflector” or “shield” that would be placed directly beneath the
skylights to reflect sunlight onto the smooth, gray, curved surface of the
vault. As if by magic, the light would transform the surface, creating a
silvery luminosity that filtered down and filled the space below without
harming the Museum’s collection.
Để
ánh sáng ngoài trời đi vào không gian trưng bày mà không gây nguy hiểm cho tác
phẩm nghệ thuật quý giá, Kahn đã hình dung một "tấm phản xạ" hoặc
"lá chắn" bằng kim loại sẽ được đặt trực tiếp bên dưới cửa sổ trần để
phản xạ ánh ánh sáng mặt trời lên bề mặt màu xám, cong trơn tru của các các.
Như một phép màu, ánh sáng sẽ làm biến đổi bề mặt, tạo ra một ánh sáng màu bạc
được lọc và tràn xuống không gian bên dưới mà không làm tổn hại đến bộ sưu tập
của Bảo tàng.
Creating a natural
lighting system was challenging, and Kahn's office and the lighting designer Richard Kelly investigated over 100
approaches in their search for the proper skylight system. The goal was to
illuminate the galleries with indirect natural light while excluding all direct
sunlight, which would damage the artwork. Richard
Kelly, lighting consultant, determined that a reflecting screen made of
perforated anodized
aluminum with a specific curve could be used to distribute
natural light evenly across the cycloid curve
of the ceiling. He hired a computer expert to determine the exact shape of the
reflector's curve, making it one of the first architectural elements ever to be
designed with computer technology.
Tạo
ra một hệ thống chiếu sáng tự nhiên là một thách thức, văn phòng của Kahn và
nhà thiết kế ánh sáng Richard Kelly đã thử nghiệm hơn 100 cách tiếp cận trong
việc tìm kiếm các hệ thống tạo được ánh sáng tự nhiên một cách thích hợp. Mục
đích là để chiếu sáng phòng trưng bày bằng ánh sáng tự nhiên gián tiếp trong
khi loại trừ tất cả ánh sáng mặt trời trực
tiếp mà sẽ làm hỏng tác phẩm nghệ thuật. Richard Kelly, chuyên gia tư vấn chiếu
sáng, xác định rằng phản chiếu ánh sáng bằng một tấm ngăn làm bằng nhôm mạ điện
được làm cong với độ độ cong nhất định có thể được áp dụng để phân phối ánh
sáng tự nhiên đồng đều giữa các đường cong cycloid của trần nhà. Ông đã thuê một
chuyên gia máy tính để xác định hình dạng chính xác của các đường cong phản xạ,
làm cho nó trở thành một trong những bộ phận
kiến trúc đầu tiên được thiết kế bằng công nghệ máy tính.
For works of art that
require very low levels of light (drawings or Asian scroll paintings, for example),
black felt can be used to cover the skylights to further reduce the amount of
light reflected into the gallery.
Đối
với tác phẩm nghệ thuật yêu cầu cường độ sáng thấp (như bản vẽ hay tranh cuộn
châu Á), các cửa sổ trần sẽ được phủ bằng nỉ đen để giảm lượng ánh sáng phản xạ
vào trong phòng trưng bày.
Kahn incorporated
slender lunettes at either end of each vault for more light. The lunette also
acts as an important element that separates distinct parts of the structure and
is, in turn, shaped by those parts. Its underside echoes the cycloid, while the
topside is shaped by the concrete shell that thickens at its apex. Therefore,
the topside of each lunette expands at the bottom and becomes thinner at the
top. Light slots run along the entire bottom length of the vault to allow
indirect sunlight to enter Museum spaces.
Kahn
còn kết hợp với các khe mảnh hình bán nguyệt ở hai đầu của mỗi mái vòm để lấy
được nhiều ánh sáng hơn.. Các khe hình bán nguyệt cũng đóng vai trò là một yếu
tố quan trọng chia tách các phần riêng biệt của kết cấu và tại vị trí gãy góc
giữa những bộ phận đó. Cạnh bên dưới lặp lại dạng đường cycloid, trong khi cạnh
trên được tạo hình bởi tấm vỏ bê tông được làm dày hơn ở đỉnh. Do đó, các khe
hình bán nguyệt rộng ở hai đầu phía dưới và hẹp hơn ở đỉnh. Các khe sáng chạy dọc
theo toàn bộ chiều dài đáy mái vòm cho phép ánh sáng mặt trời gián tiếp đi vào
không gian Bảo tàng.
Kahn also designed
three courtyards, named after the kind of light that he anticipated that their
proportions, foliation, or sky reflections would give: Green, Yellow, and Blue
Courts. Visitors can easily recognize the Green Court, with its vine roofing,
or the Blue Court, with a splashing fountain that reflects sky and water off
its travertine enclosure. The large Yellow Court is situated next to the
Kimbell’s conservation studio.
Kahn
cũng đã thiết kế ba sân, được đặt tên theo loại ánh sáng mà ông dự đoán rằng tỷ
lệ, sự phân tách, hoặc sự phản chiếu trên bầu trời của chúng sẽ tạo ra các khoảng
sân: Sân màu Xanh lá cây, Sân màu Vàng, và Sân màu Xanh da trời. Khách tham
quan có thể dễ dàng nhận ra Sân màu Xanh lá cây với giàn mái các cây nho, hoặc
Sân màu Xanh da trời với một đài phun nước bắn tung tóe phản chiếu bầu trời và
nước tràn ra ngoài bờ thềm bằng đá travertine. Sân màu Vàng rộng lớn nằm bên cạnh
phòng lưu trữ của bảo tàng Kimbell.
David Brownlee and
David DeLong, authors of Louis I. Kahn: In The Realm of Architecture,
declare that "in Fort Worth, Kahn created a skylight system without peer
in the history of architecture." Robert McCarter, author
of Louis I. Kahn, says the entry gallery is "one of the most
beautiful spaces ever built," with its "astonishing, ethereal,
silver-colored light." Carter Wiseman, author of Louis I. Kahn:
Beyond Time and Style, said that "the light in the Kimbell gallery
assumed an almost ethereal quality, and has been the distinguishing factor in
its fame ever since."
David
Brownlee và David DeLong, tác giả của cuốn sách “Louis I. Kahn: Trong vương quốc
kiến trúc”, tuyên bố rằng "ở Fort Worth, Kahn đã tạo ra một hệ thống ánh
sáng tự nhiên mà không có đồng đẳng trong lịch sử kiến trúc." Robert
McCarter, tác giả của “Louis I. Kahn”, cho biết các lối vào phòng triển lãm là
"một trong những không gian đẹp nhất từng được xây dựng," vì vẻ đẹp
"đáng kinh ngạc, thanh tao, ánh sáng màu bạc" của nó. Carter Wiseman,
tác giả của “Louis I. Kahn: Vượt lên thời đại và phong cách”, nói rằng
"ánh sáng trong các phòng triển lãm của bảo tàng Kimbell đã mang một vẻ
thoát tục, và đã trở thành yếu tố đặc trưng cho sự nổi tiếng của bảo tàng.
In areas without art,
such as the lobby, cafeteria and library, the entire reflector is perforated,
making it possible for people standing beneath to glimpse passing clouds. In
the gallery spaces, the central part of the reflector, which is directly
beneath the sun, is solid. The concrete surfaces of the ceiling were given
a high finish to further assist the reflection of the light. The end
result is that the strong Texas sun enters a narrow slot at the top of each
vault and is evenly reflected from a curved screen across the entire arc of the
polished concrete ceiling, ensuring a beautiful distribution of natural light
that had never before been achieved.
Trong khu vực không trưng bày nghệ thuật, như
sảnh, phòng ăn, thư viện, toàn bộ các tấm phản xạ được khoét thủng, làm cho người
đứng bên dưới có thể ngắm nhìn những đám mây trôi qua. Trong không gian trưng
bày nghệ thuật, phần giữa của các tấm phản xạ, là nơi mặt trời chiếu sáng trực
tiếp, là phần đặc. Bề mặt bê tông của các mái vòm được hoàn thiện kỹ lưỡng để
tiếp tục phản xạ ánh sáng. Kết quả cuối cùng là ánh sáng mặt trời chói chang của
vùng Texas đi vào một khe hẹp ở đỉnh của mỗi mái vòm và được phản xạ đều lên
toàn bộ mái vòm, điều mà chưa ai từng làm được trước đó.
Viện nghiên cứu sinh học Salk
Set on a cliff
overhanging the Pacific, the Salk Institute
was established in the 1960s by Jonas Salk, M.D., the developer of the polio
vaccine.
Nằm
trên vách đá nhô ra Thái Bình Dương, học viện Salk được thành lập trong những
năm 1960 bởi Jonas Salk, một dược sĩ đã phát minh ra vắc-xin phòng bại liệt.
Salk selected the
world-renowned architect Louis I. Kahn as the person who could design the
facility that he envisioned. Salk’s design brief to Kahn laid down the
direction – a facility that will be adaptable to the changing needs of science;
a facility that will need minimum maintenance and will weather gracefully; a
facility with environments which meet the researcher’s functional and aesthetic
needs.
Salk đã
chọn kiến trúc sư nổi tiếng thế giới Louis I Kahn là người thiết kế công trình
mà ông mong muốn. Nhiệm vụ thiết kế mà Salk đề ra cho Louis Kahn là một công
trình sẽ đáp ứng được những nhu cầu thay đổi của khoa học; một công trình cần
bảo trì tối thiểu và sẽ vượt qua được tác động của thời tiết một cách ngoạn
mục; một công trình có môi trường đáp ứng được công năng và nhu cầu thẩm mỹ của
các nhà nghiên cứu.
Before designing,
Kahn referenced and studied monasteries in order to build his concept
of an “intellectual retreat.” With a prime location in La Jolla, California and
bordering the Pacific Ocean, Kahn took advantage of the site’s tranquil
surroundings and abundant natural light. His scheme became a symmetrical plan,
two structures mirroring each other separated by an open plaza.
Trước
khi thiết kế, Kahn đã tham khảo và nghiên cứu các tu viện để tìm ý tưởng về sự
"rút lui của lý tính." Với một vị trí đắc địa ở La Jolla, California
và nằm bên bờ giáp với Thái Bình Dương, Kahn muốn giữ lấy sự yên tĩnh và giàu
ánh sáng tự nhiên của nơi đây. Ý tưởng của ông là một mặt bằng đối xứng, hai
cấu trúc đối xứng gương với nhau, ngăn cách bởi một quảng trường mở.
Kahn's creation
consists of two mirror-image structures that flank a grand courtyard. Each
building is six stories tall. Three floors contain laboratories and the three
levels above the laboratory floors provide access to utilities. Protruding into
the courtyard are separate towers that provide space for individual
professorial studies. The towers at the east end of the buildings contain
heating, ventilating, and other support systems. At the west end are six floors
of offices overlooking the ocean. Together, there are 29 separate structures
joined together to form the Institute.
Thiết
kế của Kahn gồm hai cấu trúc đối xứng gương phản chiếu đặt bên cạnh một sân
rộng. Mỗi tòa nhà có chiều cao sáu tầng. Ba tầng dưới đặt các phòng thí nghiệm
và trong ba tầng tiếp theo phía trên dành cho các công năng khác. Phía bên
ngoài sân là các tòa tháp riêng biệt dành cho nghiên cứu cá nhân chuyên sâu.
Các tòa tháp ở cuối phía đông của tòa nhà chứa hệ thống lò sưởi, thông gió và
các hệ thống phụ trợ khác. Ở phía tây là văn phòng gồm sáu tầng nhìn ra biển.
Tổng số 29 công trình riêng lẻ liên kết với nhau tạo nên Viện nghiên cứu sinh
học này.
You can see the
impact of Kahn's architecture in the courtyard. Important to note are Kahn's
imaginative use of space and his high regard for natural light. In response to
Salk's request that the Institute provide a welcoming and inspiring environment
for scientific research, Kahn flooded the laboratories with daylight. He built
all four outer walls of the laboratory levels out of large, double-strength
glass panes, producing an open, airy work environment. The labs are totally
open spanning the total length of the building and each scientist has a study
with an unobstructed view of the Pacific Ocean.
Ta có
thể nhận ra sức ảnh hưởng từ kiến trúc của Kahn trong thiết kế không gian sân.
Điều quan trọng cần lưu ý là cách sử dụng không gian đầy ẩn dụ và sự chú trọng
của Kahn với ánh sáng tự nhiên. Để đáp ứng yêu cầu của Salk về một môi trường
thân thiện và tạo cảm hứng cho nghiên cứu khoa học, Kahn đã làm cho các phòng
thí nghiệm tràn ngập ánh sáng tự nhiên. Ông đã xây bốn bức tường lớn bên ngoài
của các tầng có phòng thí nghiệm, và lắp các mảng kính cường lực, tạo ra một
không gian mở, thông thoáng. Các phòng thí nghiệm là hoàn toàn mở, dọc theo
chiều dài của tòa nhà và mỗi nhà khoa học có một khu vực nghiên cứu có thể nhìn
thông suốt ra Thái Bình Dương.
Local zoning codes
restricted the height of the buildings so that the first two stories had to be
underground. This did not, however, prevent the architect from bringing in
daylight: he designed a series of light wells 40 feet long and 25 feet wide on
both sides of each building to bring daylight into the lowest level.
Do quy
định tại địa phương về hạn chế chiều cao của tòa nhà nên hai hai tầng đầu tiên
phải được làm ngầm . Tuy nhiên, điều này đã không ngăn kiến trúc sư đưa ánh
sáng tự nhiên vào trong công trình: ông đã thiết kế một loạt các giếng trời cao
hơn 12m, rộng 7,6m ở cả hai mặt của mỗi tòa nhà để đưa ánh sáng tự nhiên xuống
đến tầng thấp nhất.
The collaboration
between Louis Kahn and Jonas Salk produced a design for a facility uniquely
suited to scientific research. The next challenge was to realize it through the
use of materials that could last for generations with only minimal maintenance.
The materials chosen for this purpose were concrete, teak, lead, glass, and
special steel. The poured-in-place concrete walls create the first bold
impression for visitors. Kahn actually went back to Roman times to rediscover
the waterproof qualities and the warm, pinkish glow of "pozzuolanic"
concrete. Once the concrete was set, he allowed no further processing of the
finish—no grinding, no filling, and above all, no painting. The architect chose
an unfinished look for the teak surrounding the study towers and west office
windows, and he directed that no sealer or stain be applied to the teak. The
building's exterior, with only minor required maintenance, today looks much as
it did in the 1960s.
Sự hợp
tác giữa Louis Kahn và Jonas Salk đã tạo ra một thiết kế độc đáo, phù hợp cho
nghiên cứu khoa học. Thách thức tiếp theo là việc sử dụng các vật liệu có thể
tồn tại trong nhiều thế hệ với sự bảo trì tối thiểu. Các vật liệu được lựa chọn
là bê tông, gỗ tếch, chì, thủy tinh và thép đặc biệt. Các bức tường bê tông đổ
tại chỗ tạo ra những ấn tượng đậm nét đầu tiên. Kahn thực sự quay trở về thời
đại La Mã để tìm các đặc tính không thấm nước, ấm áp, sắc hồng nhạt của bê tông
pozzuolanic. Sau khi bê tông đã được đổ, ông đã không tiếp tục các công tác
hoàn thiện - không mài, không trám, và hơn cả là không sơn. Kiến trúc sư đã
cũng không hoàn thiện các cấu kiện gỗ tếch xung quanh các tòa tháp (phục vụ
nghiên cứu) và cửa sổ của văn phòng phía tây, và ông yêu cầu không nhuộm màu
lên gỗ tếch. Bên ngoài của tòa nhà, do việc ít phải bảo trì, ngày nay nó vẫn
trông giống như khi nó mới hoàn thành vào những năm 1960..
The open plaza is
made of travertine marble, and a single narrow strip of water runs
down the center, linking the buildings to the vast Pacific
Ocean. A person’s view is then directed
towards nature, reminding people of their scale compared to that of the
ocean. The strip of water also enhances the symmetry intended in the
plan and creates a sense of monumentality in the otherwise bare open plaza that
is meant to be in the words of Luis Barragan “a facade to the sky.”
Quảng
trường mở được làm bằng đá cẩm thạch, có một dòng nước hẹp duy nhất chảy xuống
trung tâm, nối các tòa nhà với Thái Bình Dương bao la. Do đó, tầm nhìn được hướng
tới thiên nhiên, nhắc nhở con người về sự nhỏ bé của trước đại dương. Dòng nước
còn tăng thêm tính đối xứng trong của công trình và tạo ra một cảm giác về tính
hoành tráng của quảng trường mở mà Luis Barragan đã nhận xét đó là “mặt tiền của
công trình đối với bầu trời”.
In the beginning the
buildings were made up of different kinds of cement mixes. Kahn wanted to see
what kind of mixture would best work as well as look the best. Each mixture had
a different color. In the basement of the complex, there are different colored
cement walls because Kahn was experimenting with the mixtures. Kahn also added
wood to the complex. Kahn wanted the wood and the cement to complement each
other.
Trong
giai đoạn đầu, các tòa nhà được xây từ hỗn hợp các loại xi măng trộn lẫn với
nhau. Kahn muốn có một tổ hợp để có thể vận hành tốt nhất cũng như tạo ra hình ảnh
đẹp nhất. Mỗi hỗn hợp xi măng sẽ cho màu sắc khác nhau. Ở khu tầng hầm, những bức
tường bê tông màu sắc khác nhau, vì Kahn đang thử nghiệm với các hỗn hợp xi
măng. Kahn cũng đưa gỗ vào công trình. Ông muốn gỗ và xi măng bổ sung cho nhau.
The idea for the open
plaza or “façade to the sky” actually came from Kahn’s contemporary, Luis
Barragan. This relationship of the plaza to the sky and its magnificent view of
the Pacific are often compared to the villas of Rome or a Greek temple on the
Aegean (Wiseman 2007). The very presence of a space with no true function other
than contemplation or enjoyment in itself was very anti-Modern.
Ý
tưởng cho quảng trường mở hoặc "mặt tiền cho bầu trời" thực sự đến từ
hiện đại, Luis Barragan. Mối quan hệ của quảng trường với bầu trời và cảnh quan
tuyệt đẹp của Thái Bình Dương thường được so sánh với các biệt thự của Roma hoặc
một ngôi đền Hy Lạp trên Aegean. Sự hiện diện của một không gian không có chức
năng thật sự khác với chiêm niệm hay thưởng thức trong chính nó là rất phi-Hiện
đại.
The buildings
themselves have been designed to promote collaboration, and thus there are no
walls separating laboratories on any floor. The lighting fixtures have been
designed to easily slide along rails on the roof, in tune with the
collaborative and open philosophy of the Salk Institute's science.
Để
khuyến khích sự hợp tác, các sàn tầng được thiết kế không có bức tường ngăn
cách các phòng thí nghiệm. Các thiết bị chiếu sáng được thiết kế để dễ dàng trượt
dọc theo đường ray trên mái, phù hợp với triết lý hợp tác và cởi mở của Viện
Salk.
At first Kahn wanted
to put a garden in the middle of the two buildings. As construction continued,
Kahn did not know what shape it should take. Kahn saw an exhibit of Luis
Barragan's work at the Museum of Modern Art in New York. Kahn invited
Baragan to collaborate on the court that separated the two buildings. Barragan
told Kahn that he should not add one leaf, nor plant, not one flower, nor dirt.
Instead, make it a plaza with a single water feature. The resulting space is
considered the most impressive element of the entire design.
Lúc
đầu Kahn muốn đặt một khu vườn ở giữa hai tòa nhà. Khi đến giai đoạn xây dựng,
Kahn đã không biết sử dụng hình dạng nào cho khu vườn. Kahn đã tham quan một
triển lãm của Luis Barragan tại Bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại ở New York. Kahn mời
Baragan để cộng tác thiết kế khoảng sân ngăn cách hai tòa nhà. Barragan nói với
Kahn rằng ông không nên thêm một chiếc lá, hay một cái cây, không phải một bông
hoa hay bụi bẩn. Thay vào đó, nên làm cho nó là một quảng trường với một tính
năng nước duy nhất. Ý tưởng này được coi là yếu tố ấn tượng nhất của toàn bộ
thiết kế.
The water feature
running the axis of the central plaza is one of the most non-Modern elements of
the Salk Institute. It serves no real function other than to add a visual
element to the courtyard. In some sense, it opposes the modern rejection of
ornamentation.
Tuyến
kênh nước chạy theo trục của quảng trường trung tâm là một trong những yếu tố
không hiện đại nhất của Viện Salk. Nó không có chức năng thực tế ngoài việc là
một yếu tố hình ảnh vào sân. Theo một nghĩa nào đó, nó không phản đối việc
trang trí.
Added to the central
channel was a “sculptural cistern” at the west end of the site. The cascading
pools of the cistern are thought to be inspired by either the Mughal garden
Kahn saw in India and Pakistan or the Alhambra in Spain (Wiseman 2007). Either
way, it is clear that there are pre-Modern influences. Although at first sight
there are striking modern elements, like the use of rectilinear forms and
slabs, the presence of travertine marble and a water feature suggest Kahn’s
pre-Modern influences. The “sculptural cistern” also features its own use of
hierarchy and monumentality that one might find in a classical fountain.
Additionally, it is completely symmetrical, with the water channel dividing it
into two equal halves.
Một
chiếc bể giàu tính điều khắc được đặt ở đầu phía Tây của tuyến kênh nước
(Wiseman 2007). Kiểu hồ bơi chảy như thác được cho là lấy cảm hứng từ khu vườn
Mughal Kahn ở Ấn Độ và Pakistan hoặc Alhambra ở Tây Ban Nha. Dù bằng cách nào,
rõ ràng rằng đã có những ảnh hưởng của tiền-Hiện đại. Mặc dù ngay từ cái nhìn đầu
tiên, những yếu tố hiện đại nổi bật lên, như việc sử dụng các khối, diện vuông,
thẳng, sự hiện diện của đá cẩm thạch và tuyến kênh nước đã thể hiện những ảnh
hưởng của tiền-Hiện đại đến thiết kế của Kahn. Các "bể điêu khắc"
cũng có tính năng sử dụng của mình trong hệ thống được phân cấp và sự hoành
tráng mà người ta có thể tìm thấy trong một đài phun nước cổ điển. Ngoài ra, nó
là hoàn toàn đối xứng, tuyến kênh nước đã chia nó thành hai phần bằng nhau.
According to A.
Perez, the concrete was made with volcanic ash relying on the basis of ancient
Roman concrete making techniques, and as a result gives off a warm, pinkish
glow. Each laboratory block has five study towers, with each tower containing
four offices, except for those near the entrance to the court, which only
contain two. A diagonal wall allows each of the thirty-six scientists using the
studies to have a view of the Pacific, and every study is fitted with a combination
of operable sliding and fixed glass panels in teak wood frames. Originally the
design also included living quarters and a conference building, but they were
never actually built.
Theo
A. Perez, bê tông đã được trộn với tro núi lửa dựa trên cơ sở kỹ thuật làm bê
tông La Mã cổ đại, và kết quả là cho ra một loại bê tông đem lại cảm giác ấm
áp, có sắc hồng sáng. Mỗi khối công trình có năm tòa tháp phục vụ nghiên cứu, mỗi
tòa tháp chứa bốn văn phòng, ngoại trừ những phòng ở gần lối vào tòa án, mà chỉ
có hai văn phòng. Một bức tường chéo cho phép mỗi ba mươi sáu nhà khoa học sử dụng
các nghiên cứu để có một cái nhìn của Thái Bình Dương, và mỗi không gian nghiên
cứu được tạo ra bởi sự kết hợp của các vách kính có thể trượt và cố định trong
khung gỗ tếch. Thiết kế nguyên bản cũng có khu nhà ở và phòng hội nghị, nhưng
chúng đã không được xây dựng.
The foremost aspect
of the exterior of the Salk Institute is its reinforced concrete construction.
Kahn was more than masterful in his use of concrete for the institute, even
experimenting with several types and mixtures before settling on a final
product. Special attention was paid to the board-forming process and the forms
the process left in the concrete. In contrast, the less modern materials of
marble and wood were used for the courtyard and office screens, respectively.
Viewing the North or South elevations, one can see how the nearly symmetrical
plan and repetition of five monolithic rectilinear forms can evoke images of
classical columns. The sheer size and imposing forms evoke the monumental feel
Kahn was intentionally trying to express in his architecture. Additionally, the
symmetry of the plan reflects an embracing of certain pre-Modern ideas.
Khía
cạnh quan trọng nhất trong vẻ ngoài của Viện Salk là vật liệu bê tông cốt thép.
Kahn còn hơn cả một bậc thầy trong việc sử dụng bê tông của mình cho các viện
nghiên cứu, thậm chí thử nghiệm với một số loại và hỗn hợp trước khi quyết định
được sản phẩm cuối cùng. Đặc biệt chú ý đến quá trình chế tạo ván khuôn và tạo
hình sau khi ván khuốn tháo ra khỏi khối bê tông. Ngược lại, vật liệu ít hiện đại
như đá cẩm thạch và gỗ đã được sử dụng cho các sân và các vách ngăn văn phòng.
Xem các cao độ Bắc hay Nam, một có thể thấy mặt bằng gần như đối xứng và sự lặp
lại của năm đơn nguyên dạng thẳng đứng có thể gợi lên hình ảnh của các cột cổ
điển. Quy mô và hình thức áp đặt gợi lên cảm giác hoành tráng mà Kahn đã cố gắng
thể hiện trong kiến trúc của ông. Ngoài ra, sự đối xứng của mặt bằng đã phản
ánh sự chấp nhận một số ý tưởng tiền- Hiện đại.
The Salk Institute’s
open environment teeming with empty space is symbolic of an open environment
for creation, the symmetry stands for scientific precision, and submerging crevasses
allow warm, natural light to enter the buildings like the intellectual light
that leads to discovery. The contrast between balance and dynamic space
manifests a pluralistic invitation for scientific study. Although modern in
appearance, it is essentially an isolated compound for individual and
collaborative study not unlike monasteries as sanctuaries for religious
discovery, and they are thought to have directly influenced Kahn in his design.
Ultimately, the Salk Institute’s meaning can be interpreted as transcending
function and physical place as a reflection of Western Civilization’s pursuit
of truth through science.
Không
gian mở của Viện Salk đầy ắp khoảng trống là biểu tượng của một môi trường mở kích
thích sự sáng tạo, sự đối xứng đứng biểu
trưng cho tính chính xác khoa học, và các ô thoáng cho phép ánh sáng tự nhiên
và nhiệt độ ấm áp vào trong tòa nhà như ánh sáng trí tuệ tạo nên những khám phá
mới. Sự tương phản giữa không gian tĩnh và không gian động biểu hiện một lời mời
gọi đa nguyên tham gia nghiên cứu khoa học. Mặc dù hiện đại về hình dáng bên
ngoài, về cơ bản công trình được cô lập để dành cho nghiên cứu của cá nhân và tập
thể không phải không giống như các tu viện nơi ẩn náu để có khám phá tôn giáo,
và họ được cho là đã ảnh hưởng trực tiếp đến thiết kế của Kahn. Cuối cùng, ý
nghĩa của Viện Salk có thể được giải thích như là hơn cả một địa điểm, một mục
đích sử dụng thong thường mà còn là sự phản ảnh về việc theo đuổi tư duy khoa học
chân chính của văn minh phương Tây.
In 1992, the Salk received
a 25-Year Award from the American Institute of Architects (AIA) and was
featured in the AIA exhibit “Structures of Our Time: 31 Buildings That
Changed Modern Life”. The Salk Institute has been described in the San
Diego Union-Tribune as the single most significant architectural site in
San Diego, been regarded as of the most inspirational works of architecture in
the world.
Subscribe to:
Posts (Atom)